Độc lập, tự chủ, sáng tạo - Nét độc đáo trong phong cách tư duy Hồ Chí Minh

         Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn, Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta và đi vào lịch sử nhân loại như một trong những vĩ nhân có tầm ảnh hưởng lớn nhất trong thế kỷ XX. Điều làm nên sự vĩ đại, nhưng gần gũi, giản dị của Hồ Chí Minh là ở nhân cách, đạo đức, tài năng, những cống hiến của Người cho dân tộc và nhân loại. Một trong những di sản mà Người để lại là phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo - cơ sở, tiền đề cho việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.

 

              Phong cách là “lề lối, cung cách, cách thức, phong thái, phong độ và phẩm cách đã trở thành nền nếp ổn định của một người hoặc của một lớp người, được thể hiện trong tất cả các mặt hoạt động, như lao động, học tập, sinh hoạt, ứng xử, diễn đạt (nói và viết)… tạo nên những giá trị, những nét riêng biệt của chủ thể đó”(1). Tư duy, theo Từ điển tiếng Việt, là “giai đoạn cao của quá trình nhận thức, đi sâu vào bản chất và phát hiện tính quy luật của sự vật bằng những hình thức như biểu tượng, khái niệm, phán đoán, suy lý”.

Có thể hiểu, phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Hồ Chí Minh là một trong những nét độc đáo trong phong cách tư duy Hồ Chí Minh; là cơ sở cho việc hình thành những luận điểm, tư tưởng đặc sắc mang dấu ấn Hồ Chí Minh, tạo nên sự khác biệt giữa Hồ Chí Minh với nhiều nhà tư tưởng, nhà lãnh đạo tiền bối và đương thời.

             Với Hồ Chí Minh, độc lập là không phụ thuộc, không bắt chước, không theo đuôi, giáo điều, tránh lối cũ, đường mòn và tự mình phải luôn tìm tòi, suy nghĩ. Tự chủ là tự mình làm chủ suy nghĩ, làm chủ bản thân và công việc của mình, tự mình thấy trách nhiệm trước đất nước và dân tộc. Sáng tạo là vận dụng đúng quy luật chung cho phù hợp với cái riêng, cái đặc thù; sẵn sàng từ bỏ những cái cũ, lạc hậu, tìm tòi, đề xuất những cái mới để có thể trả lời được những đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống đặt ra(2). Nhờ tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra quy luật của cách mạng Việt Nam, phù hợp với quy luật phát triển chung của nhân loại.

Tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo hình thành rất sớm ở Hồ Chí Minh, ngay từ thuở thiếu thời, lúc Người mới bước vào tuổi thanh niên. Khác với các nhà cách mạng tiền bối, Hồ Chí Minh không lựa chọn sang phương Đông mà quyết định sang phương Tây, cụ thể là nước Pháp để tìm đường cứu nước, cứu dân. Đó là sự lựa chọn hết sức táo bạo trong thời điểm lịch sử lúc bấy giờ. Cũng với tấm lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, nếu như Phan Bội Châu chủ trương dựa vào Nhật để đánh Pháp giành độc lập dân tộc, Phan Chu Trinh chủ trương giương cao ngọn cờ dân chủ, cải cách xã hội, cứu nước bằng phương pháp nâng cao dân trí, dân quyền, thì Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh tán thành Quốc tế Cộng sản, tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lê-nin và đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga.

Chính tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo đó đã tạo ra sự khác biệt trong cách đi, bước đi, quan điểm, tư tưởng giữa Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh với các nhà yêu nước cách mạng tiền bối và cùng thời với Người. Để đưa ra quyết định lựa chọn cứu nước theo con đường cách mạng vô sản, trong suốt 10 năm, từ năm 1911 đến năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã tự mình khảo sát, nghiên cứu các cuộc cách mạng ở các nước tư bản Mỹ, Anh, Pháp…, đã sống, lao động, học tập, tiếp xúc với đủ hạng người, từ tầng lớp thượng lưu, tinh hoa đến những người lao động nghèo khổ nhất ở châu Á, Âu, Phi, Mỹ La-tinh. Điều đó giúp Người mở rộng tầm mắt, tăng cường vốn sống, hiểu biết về cuộc sống, tình cảnh, số phận con người, nhất là người lao động ở các nước tư bản và các nước thuộc địa.

Sau khi lựa chọn con đường cách mạng vô sản, trở thành người cộng sản, tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Hồ Chí Minh thực sự có bước phát triển mới. Từ đây, độc lập, tự chủ mới thực sự đi đến sáng tạo; trình độ tư duy của Người đã đạt đến tầm mức có thể so sánh, lựa chọn và tổng hợp những cứ liệu từ thực tế Việt Nam và thế giới, những kinh nghiệm từ cuộc sống, những tư tưởng của lớp người đi trước, để từ đó mà đúc kết, hình thành nên những luận điểm, tư tưởng, kết luận mới.

                Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Hồ Chí Minh coi đó là kim chỉ nam cho hành động, là “mặt trời soi sáng”, “trí khôn”, “cái cẩm nang thần kỳ” có tính phương pháp luận chỉ dẫn hành động. Người coi việc học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin là học tập cái tinh thần xử trí đối với mọi việc, với người và với mình; là nắm vững lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lê-nin để giải quyết các vấn đề của cách mạng Việt Nam. Người không tự hạn chế, tự trói buộc mình và cũng không trói buộc người khác hoặc để người khác trói buộc mình vào từng câu chữ. Tư duy của Hồ Chí Minh là sự thấm nhuần lời chỉ dẫn của Lê-nin: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đó đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”(3).

                Nhờ có tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo đó, nên trong quá trình hoạt động cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã có khả năng phát triển nhiều luận điểm rất mới mẻ, bổ sung, phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Chẳng hạn, Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ gửi Quốc tế Cộng sản năm 1924, nhấn mạnh, cuộc đấu tranh giai cấp ở phương Đông không giống như ở phương Tây. Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử châu Âu, mà châu Âu chưa phải là toàn thể nhân loại; do vậy, phải “xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông”(4). Nguyễn Ái Quốc cũng đã sớm nhận ra vai trò chủ động, tích cực của cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Nếu như Lê-nin và Quốc tế Cộng sản đều cho rằng, cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng vô sản chính quốc, cách mạng giải phóng dân tộc chỉ có thể thắng lợi khi cách mạng vô sản chính quốc thắng lợi thì Hồ Chí Minh đã nêu quan điểm ngược lại, khi cho rằng cách mạng ở các nước thuộc địa có thể nổ ra và thắng lợi trước cách mạng vô sản chính quốc và tác động trở lại thúc đẩy cách mạng chính quốc. Nhân dân Việt Nam hoàn toàn có thể chủ động đứng lên “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.

               Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng và đã trở thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Cương lĩnh chính trị đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, chủ trương tập hợp, đoàn kết lực lượng cách mạng toàn dân tộc cũng như giải quyết vấn đề độc lập dân tộc trong khuôn khổ nước Việt Nam. Tuy nhiên, do trái với quan điểm, chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã chịu nhiều sự phê phán, chỉ trích nặng nề, phải “sống quá lâu trong tình trạng không hoạt động và giống như là sống ở bên cạnh, ở bên ngoài của Đảng”(5). Thực tế đã chứng minh rằng, chủ trương, cách giải quyết vấn đề dân tộc của Nguyễn Ái Quốc tại Hội nghị thành lập Đảng là hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, xu thế phát triển của thời đại, thể hiện nhãn quan chính trị, tầm nhìn vượt trước của Người trong bối cảnh nhận thức chung lúc bấy giờ.

Vậy tại sao Hồ Chí Minh lại có phong cách tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo như vậy? Có thể lý giải bằng những nguyên nhân sau:

               Một là, mọi suy nghĩ của Hồ Chí Minh đều lấy thực tế Việt Nam làm điểm xuất phát. Việt Nam là một dân tộc có truyền thống yêu nước và lòng tự tôn dân tộc sâu sắc. Lịch sử Việt Nam đã trải qua nhiều cuộc đấu tranh chống ngoại xâm để bảo vệ chủ quyền, nền độc lập của dân tộc. Trong lịch sử nhân loại, có lẽ ít có dân tộc nào phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc như dân tộc Việt Nam. Chính điều đó đã hình thành nên trong tính cách, đặc trưng của con người Việt Nam lòng yêu nước nồng nàn, chủ nghĩa dân tộc, khát khao hòa bình, độc lập, tự do cháy bỏng. Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất, nhà tan, nhân dân bị áp bức, bóc lột bởi chủ nghĩa thực dân, phong kiến. Trong xã hội Việt Nam đan xen, tồn tại nhiều mâu thuẫn, nhưng mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân xâm lược; do vậy, nhiệm vụ đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập, tự do cho dân tộc, cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân là yêu cầu cấp bách nhất. Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người là mục tiêu lớn nhất mà Hồ Chí Minh theo đuổi. Và trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, mọi suy nghĩ, hành động của Người đều hướng tới mục tiêu đó.

              Hai là, Hồ Chí Minh không ngừng học tập, nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn trong và ngoài nước. Không phải ngẫu nhiên mà Người có được tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo. Ngoài yếu tố thiên bẩm thuộc về tư duy, tố chất, ngay từ nhỏ đến lúc cuối đời, Hồ Chí Minh luôn không ngừng nghỉ học tập, nghiên cứu để bổ sung tri thức, năng lực tư duy và hiểu biết cho mình; lấy tự học làm phương thức chủ yếu để nâng cao trình độ, kiến thức văn hóa. Người nghiên cứu rất kỹ tiểu sử, tư tưởng của các nhà cách mạng tiền bối của dân tộc cũng như tư tưởng của các nhà văn hóa, chính trị ở phương Đông và phương Tây; không ngừng đọc, suy ngẫm, chiêm nghiệm, so sánh, lựa chọn, tiếp thu những cái hay, cái tốt của những vĩ nhân đó để bổ sung kiến thức văn hóa cho bản thân. Chính vì thế, Hồ Chí Minh đã trở thành một con người có trí tuệ uyên bác, mẫn tiệp, vượt thời đại.

            Ba là, quá trình hoạt động thực tiễn sinh động, phong phú ở nhiều quốc gia, trải qua nhiều vị trí công tác, thăng trầm trong quá trình hoạt động cách mạng là những yếu tố quan trọng hình thành tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Hồ Chí Minh.

Hồ Chí Minh là người hoạt động cách mạng từ rất sớm, ở nhiều nước, trên nhiều lĩnh vực, địa bàn, vị trí công tác khác nhau và cũng hiếm có nhà cách mạng nào trên thế giới ở thời điểm đó đi và làm nhiều nghề khác nhau như Nguyễn Ái Quốc. Dấu chân Người đã in đậm trên những nẻo đường ở khắp châu Âu, châu Á, châu Phi, đến Mỹ La-tinh. Mỗi công việc, địa bàn hoạt động đều đem đến cho Nguyễn Ái Quốc những trải nghiệm phong phú, cảm nhận và chiêm nghiệm, đánh giá khác nhau.

              Nhưng quan trọng hơn là dù ở bất cứ đâu, trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù khó khăn đến mấy, Người cũng luôn hoạt động tích cực, sôi nổi, xông xáo. Đặc biệt, sau khi trở thành người cộng sản, hoạt động trong Đảng Cộng sản Pháp, Quốc tế Cộng sản, rồi cuối năm 1924 về Quảng Châu, Trung Quốc, Hồ Chí Minh đã tranh thủ mọi thời gian, tận dụng mọi cơ hội trong các diễn đàn, hội nghị để nói lên tiếng nói của nhân dân các thuộc địa nói chung và của nhân dân Đông Dương và Việt Nam nói riêng trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân; ra sức đoàn kết, tập hợp lực lượng cách mạng, chuẩn bị các điều kiện về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản… Môi trường hoạt động đa dạng, phong phú, được tiếp xúc với nhiều người, nhiều giới, giúp Nguyễn Ái Quốc mở mang tầm mắt, học hỏi, tiếp thu được nhiều điều hay cũng như nhận ra những hạn chế, bất cập, bất công ở những nơi Người từng sống và hoạt động.

 

 

                Một là, mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân cần xây dựng ý thức không ngừng học hỏi, nâng cao trình độ, năng lực tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo theo phong cách Hồ Chí Minh. Đây là yêu cầu, nhiệm vụ quan trọng đối với mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân nhằm đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của công việc và thực tế cuộc sống đang đặt ra. Xây dựng ý thức tự giác học tập là con đường ngắn nhất đi đến thành công và đó cũng là phương pháp, cách thức mà Hồ Chí Minh đã theo đuổi trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình.

Mỗi người cần ý thức được rằng, học và làm theo phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Bác là góp phần nâng cao năng lực, trình độ; là trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân trước vận mệnh lịch sử và quốc gia - dân tộc; là góp phần hiện thực hóa tầm nhìn, mục tiêu phát triển đất nước; nhằm xử lý, giải quyết tốt nhất, hiệu quả nhất yêu cầu của công việc, tránh bệnh rập khuôn, máy móc, giáo điều. Đó cũng là quá trình rèn luyện, phấn đấu, hoàn thiện bản thân của mỗi người, từ đó lan tỏa, tạo thành sức mạnh tổng hợp nhằm thực hiện cho được khát vọng sánh vai với các cường quốc năm châu như mong ước, tâm nguyện của Bác Hồ.

           Hai là, đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đến mỗi cán bộ, đảng viên về giá trị, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nói chung, phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Bác nói riêng. Việc giáo dục, tuyên truyền cần được tổ chức thường xuyên, liên tục với nội dung phong phú, sinh động, cách thức, biện pháp đa dạng, gần gũi, bình dị, phù hợp với trình độ nhận thức của những đối tượng khác nhau. Chỉ khi nào mỗi tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức được vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc học và làm theo phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Bác, thì khi đó, phong cách ấy mới trở thành ý thức tự giác thường trực trong mỗi tập thể và cá nhân.

Cần sử dụng nhiều kênh, hình thức, công cụ khác nhau để tuyên truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân, như qua sách, báo, tạp chí, phát thanh - truyền hình; qua học tập, quán triệt, triển khai thực hiện nghị quyết; qua hội thảo, tọa đàm, sinh hoạt chuyên đề, các cuộc thi, khảo sát thực tế, tìm hiểu tư tưởng và cuộc đời hoạt động của Người. Tùy thuộc vào đặc điểm, tình hình của mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương, vào đối tượng, thời điểm cụ thể mà có hình thức giáo dục, tuyên truyền sinh động, phù hợp, kết hợp các hình thức đó với nhau… Cần nhận thức được rằng, học và làm theo phong cách tư duy của Bác không phải là những điều gì trừu tượng, cao siêu, mà rất cụ thể, thiết thực, ai cũng có thể học tập và noi theo.

           Ba là, học và làm theo phong cách Hồ Chí Minh nói chung, phong cách tư duy Hồ Chí Minh nói riêng phải trở thành một nội dung, yêu cầu bắt buộc, là một trong những tiêu chuẩn, tiêu chí để đánh giá, bình xét, xếp loại thi đua - khen thưởng, phân loại đảng viên, tổ chức đảng hằng năm; là nội dung sinh hoạt thường xuyên của chi bộ, gắn với các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước, với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và giải quyết các vấn đề bức xúc, nổi cộm ở từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Học và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách của Bác nói chung, phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Người nói riêng phải là nghĩa vụ, bổn phận bắt buộc đối với mọi cán bộ, đảng viên và phải được quy định thành chế độ, quy chế cụ thể./.